common.loading

Bài ký của cụ Tuần Vũ quảng yên Nguyễn Khoa Dục khắc trên bia mộ tổ Nguyễn Khoa ở thôn Trạm Bạc, tỉnh Hải Dương

Bản dịch âm

Phù, bách tầm chi mộc khởi để manh nha, hà xuất côn loan quy vi đại hải, mộc bổn thủy nguyên, cái hữu tự giả. Ngã tỵ tổ nguyên trạch vu Đông tỉnh chi An Dưỡng huyện, Trạm bạc xã, tích lũy do lai cữu hỷ. Đại ngã thánh triều xuân kinh đỉnh, ngã tiên tổ nãi đồ vu kinh cấp cho Hương Thủy huyện, An Cựu xã, nhập nghiệp vu tư trù mông quốc sủng chi phồn diễn, bất si qua diệt cái căn chi thâm giả kỳ diệp mậu dẫn vu phất tán lý sĩ nghi nhiên. Trung gian đa cự diên trở kỳ vảng tỉnh thượng vị năng giả.

Ngã hiển khảo Thiếu bảo Vinh lộc đại phu, Hiệp biện đại học sĩ, lĩnh Hộ bộ Thượng thơ phu quân, ư Minh Mạng bát niên xuân, mông gia Thị lang vế, quyền biện Bắc thành hộ thử sự vụ, hạ mông thực thụ Hộ bộ hữu Thị lang, nhưng lưu biện sự, nhơn đắc nhất vãng nhi cựu ấp dĩ kinh lưu tán cố tích nan ư khan nhân hỷ.

Tùng thử gia tâm chiêu phủ vị thường nhất nhật thiển trí. Thị niên đông, lai kinh biện lý bộ vụ cửu niên thăng thử Hộ bộ hữu Tham tri, lĩnh Gia Định thành hộ tào kiêm quản công tào sự vụ, hạ mông thực thụ, thập niên hạ, thăng thụ Lễ bộ Thượng thư, lịch diễn Lại bộ, Hộ bộ, chức sự long trọng, bất năng trí vãng, thử chí vị tựu thường di cáo thị nại sự, thôi phi hành chi phục nhi phất võng thả cựu ý.

Tự Đức nhị niên, hạnh mông lai ly Hải tỉnh, kỳ địa dữ cựu ấp nhưỡng mông sơn tại vong du du, ngã tri thị niên cấp tam trí tầm niên tỉnh hạt nhân dĩ thanh phỉ nha sự ức sắc, hoàng uy viễn sướng, thủ thứ tước bình, kim xuân hạt hạ ninh thiếp hựu nhân công hạ, toại vãng tỉnh tắc cựu ấp nhân dân dĩ hồi phục hỷ. Hỉ thâm úy, thâm viên dĩ trầm tích, phòng chư kỳ lão, nhưng đăng quyết trạch phụ bồi hồi siêm kim kiến đắc nhất đôi phương thổ, bằng hữu thiên đại, trung hữu thổ ngân vi đột, tiền ngũ nhạc hậu hữu nhất đài, tả hữu chứng ứng liệu nhân tại mục, thực thôi ngã tiên linh điềm dụ kỳ ai, Đản tam bách niên lai chi cửu đáo kim, tỉnh nhan hiên tích như tồn, tắc kỳ tử tế tường nhân hữu khả tư chấn dĩ lưu vu vô cùng giả, tương bất tại ư tư hô!

Nãi khởi hữu vi phân, tọa tốn hướng càn, bi chí kỳ sự, thứ hữu dĩ ủy ngã liệt tố như tại chi linh, nhị ngã hiền khảo chi chí hậu chi nhân đăng viết, thử nhi quang đại chi dĩ vô vọng, quyết phục giả chính sở thâm vọng giả, thi vị kỷ.

Tự Đức ngủ niên Nhâm Tý trọng thủ cát đán, hộ lý Quảng Yên Tuần phủ quan phòng, gia nghị đại phu Bố chính Sử, gia Quận công nhị cấp Nguyễn Khoa Dục cẩn chi.

 

Bùi Hữu Lân

 chuyển âm từ chữ Nho qua Việt ngữ

Bản dịch nghĩa   

Phàm cây cao trăm trượng đều khởi thủy từ mầm non, sông thì có nguồn từ núi chảy ra thành biển lớn. Cây có gốc, nước có nguồn, đó là điều tự nhiên.

Thủy tổ ta nguyên trú tại tỉnh phía Đông, huyện An dương, làng Trạm bạc, gốc tích khởi từ đó. Đến lúc Thánh triều dựng Kinh Đô tại Phú xuân, Tiên tổ ta bèn dời vào ở Kinh Đô thuộc huyện Hương thủy, làng An Cựu. Nhờ ơn dày của nước nhà mà con cháu ngày càng đông đúc giống như bụi cây bám rễ ăn sâu vào đất, cành lá tốt tươi là đúng lẽ vậy, nhưng vì xa xôi cách trở nên không vãng lai được.

Hiền khảo ta là Thiếu bảo Vinh lộc Đại phu Hiệp biện Đại học sĩ, Thượng thư Bộ Hộ, Mùa xuân năm Minh Mạng thứ 8 (1827) lập phủ, đội ơn được phong Thị lang quyền Bắc thành Hộ thư Sự vu. Mùa Hạ năm ấy được trao chức hữu Thị lang bộ Hộ, lưu lại đấy làm việc. Trải qua một thời gian, ấp cũ đã đổi thay, dấu tích khó nhận. Ở miền Bắc, Hiền khảo gia tâm chiêu dụ không một ngày xao lãng. Mùa Đông năm ấy, đến Kinh Đô biện lý việc Hộ. Năm Minh Mạng thứ 9 (1828) được phong tả Tham tri bộ Hộ, lãnh việc Hộ ở Gia Định kiêm việc Công. Mùa Hạ năm đó, được thức phong Thượng thư bộ Lễ kiêm cả việc bộ Lại và bộ Hộ: công việc quá sức bề bộn không trở về quê cũ được, nhưng chí chưa thành nào đã dám quên.

Năm Tự Đức thứ 2 (1849) may được đi đến tỉnh miền biển, địa thế ở đây giống ấp cũ, có núi xa trùng điệp bao quanh, ta nhớ lại năm đó và ba bốn năm trước, nhân bị giặc cướp mà nhờ ơn Thánh triều nên dẹp được yên. Nhân được nghỉ việc quan trở về ấp cũ, thấy nhân dân đã trở về hết sức vui mừng an ủi. Nhân lấy vết tích hỏi thăm các bậc kỳ lão, liền tìm đến nơi nhà cũ bồi hồi nhìn thấy một vùng đất vuông, cạnh có Thiên Địa, trong có vùng đất hơi nổi lên, trước có năm ngọn núi, sau có ba ngọn, trái phải rộng rãi, đủ thấy các bậc Tổ tiên khéo thương ta nên đã ba trăm năm mà linh hiển vẫn như còn, càng cảm thấy nỗi nhớ nhung vô biên. Bèn lấy bên Hữu làm mộ (tọa ở Tốn, hướng ở Càn) lập bia ghi nhớ, làm vui lòng liệt Tổ, xem anh linh như còn tồn tại để người sau hiểu rõ chí của Hiền khảo ta sáng rõ và lớn lao, mà không quên được chí đó. Ấy là hy vọng sâu xa của bài ký này.

Năm Tự Đức thứ năm (1852), Nhâm tí, giữa mùa thu, ngày tốt

Hộ lý Quảng an, Tuần vũ khai phòng Gia nghĩa

Đại phu Bộ Chánh sứ, thăng Quận công Nhị cấp Nguyễn Khoa Dục

Cẩn chí

Bửu Kế (ngoại Nguyễn Khoa)

dịch bản Hán văn ra Việt văn — tháng Tư 1985